Tiêu hóa

 

Vi khuẩn HP là “thủ phạm” gây nhiều bệnh lý về dạ dày và làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày. Do đó, chẩn đoán nhiễm vi khuẩn HP và điều trị kịp thời có ý nghĩa quan trọng giúp hạn chế tối đa các biến chứng nguy hiểm do vi khuẩn HP gây ra.

Triệu chứng khi nhiễm vi khuẩn HP

Nhiều người bị nhiễm vi khuẩn HP vẫn sống khỏe mạnh và không xuất hiện triệu chứng rõ ràng. Tuy nhiên, ở một số bệnh nhân, bệnh có thể gây ra các triệu chứng của viêm loét dạ dày, như: Đau bụng sau khi ăn, buồn nôn, mất cảm giác ngon miệng, ợ nóng thường xuyên, đầy hơi, hôi miệng, giảm cân.

Nếu nhiễm vi khuẩn HP lâu ngày, bệnh nhân sẽ có các triệu chứng rõ rệt, như: cơn đau bụng dữ dội và dai dẳng, khó nuốt, phân lẫn máu hoặc có màu đen, nôn ra máu hoặc dung dịch nôn có màu đen hay màu như bã cà phê.

Nếu xuất hiện các triệu chứng trên, nghi ngờ bị nhiễm vi khuẩn HP, bạn cần đến ngay bệnh viện hoặc cơ sở y tế để được chẩn đoán và điều trị kịp thời nhằm hạn chế tối đa các biến chứng nguy hiểm do HP gây ra.

 

 

Ai dễ bị nhiễm HP?

Nhiễm khuẩn HP phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tuổi tác, vị trí địa lý và chất lượng cuộc sống. Nhiễm vi khuẩn HP có thể xảy ra ở bất cứ đối tượng nào, từ trẻ đến già, từ nam đến nữ nhưng thông thương bệnh nhân bị nhiễm vi khuẩn Helicobacter pylori ngay từ khi còn nhỏ.

Những đối tượng dễ mắc bệnh lý này bao gồm:

  • Người bệnh thường xuyên sống ở những nơi đông đúc như ký túc xá, quân đội, gia đình có nhiều người… Chỉ cần một người bị nhiễm vi khuẩn HP có thể lây lan cho cả tập thể.
  • Khu vực sống thiếu nước sạch, thực phẩm nhiễm bẩn không đảm bảo an toàn.
  • Người sống ở những nước đang phát triển có nguy cơ rất cao bị nhiễm vi khuẩn HP do điều kiện sống chật chội, nước sinh hoạt bị thiếu và không sạch, vệ sinh môi trường kém.
  • Sống chung với bệnh nhân bị nhiễm H. pylori.
  • Ở các nước đang phát triển, đối tượng nguy cơ cao bị nhiễm khuẩn là trẻ em ở độ tuổi từ 2-8 tuổi và người lớn từ 20 tuổi trở lên.
  • Ở các nước phát triển, tuổi bị nhiễm khuẩn HP thường >50 tuổi và chiếm 50% dân số.

Phương pháp chẩn đoán và điều trị

Có 2 phương pháp chính để chẩn đoán vi khuẩn HP bao gồm: các phương pháp xâm lấn và phương pháp không xâm lấn.

Trong đó, phương pháp xâm lấn gồm:

  • Xét nghiệm urease: Nhằm phát hiện men urease của HP. Đây là một xét nghiệm nhanh chóng, đơn giản, chi phí thấp và hữu hiệu để chẩn đoán HP với độ nhạy và độ đặc hiệu > 95% .
  • Nuôi cấy: đây là phương pháp xét nghiệm đặc hiệu nhất, là tiêu chuẩn vàng chẩn đoán nhiễm HP. Trong trường hợp điều trị thất bại, nuôi cấy làm kháng sinh đồ là xét nghiệm có ích và gần như duy nhất để đánh giá tình trạng kháng thuốc của HP.

Mặc dù độ đặc hiệu cao, đạt gần 100% nhưng độ nhạy thì rất khác nhau do ảnh hưởng của các yếu tố như mật độ vi khuẩn, điều kiện tiến hành nuôi cấy, môi trường nuôi cấy...

  • Chẩn đoán mô bệnh học: Đây là xét nghiệm được sử dụng rộng rãi để chẩn đoán nhiễm HP, độ nhạy và độ đặc hiệu của thử nghiệm này là > 95%. Xét nghiệm này còn cho phép đánh giá các tổn thương của niêm mạc dạ dày.
  • Kỹ thuật PCR (Polymerase chain reaction): PCR là một kỹ thuật chẩn đoán có trong các phòng thí nghiệm tiên tiến nhưng chưa thông dụng trong chẩn đoán nhiễm HP. Độ nhạy của phương pháp này > 90%.

Phương pháp không xâm lấn gồm:

  • Xét nghiệm hơi thở C13 hoặc C14: là phương pháp chẩn đoán đơn giản, dễ chấp nhận hơn các thử nghiệm phụ thuộc vào nội soi. Nó có độ nhạy và độ đặc hiệu cao (> 90%) . Đây là xét nghiệm thường được sử dụng để đánh giá sau điều trị và cho trẻ em; tuy nhiên vì giá khá cao nên ít được sử dụng tại Việt Nam.
  • Xét nghiệm tìm kháng thể kháng HP trong huyết thanh: Được sử dụng để phát hiện kháng thể IgG kháng HP. Xét nghiệm này có độ nhạy trên 90% nhưng ít được sử dụng để chẩn đoán và theo dõi sau khi điều trị tiệt trừ HP vì kháng thể vẫn tồn tại từ 6 tháng đến 1 năm kể từ khi bị nhiễm HP và sau tiệt trừ.
  • Xét nghiệm tìm kháng thể HP trong nước tiểu: Phương pháp giúp tìm kháng thể kháng vi khuẩn HP trong nước tiểu trong vòng 10-20 phút nên thường được sử dụng trong tầm soát nhiễm HP với độ nhạy đạt 80% và độ đặc hiệu 90%. Phương pháp này không có giá trị cho chẩn đoán, theo dõi sau điều trị diệt trừ HP.
  • Xét nghiệm kháng nguyên trong phân: Đây là một thử nghiệm nhằm phát hiện kháng nguyên của HP trong phân. Độ nhạy 95% và độ đặc hiệu 94% kể cả sau khi đã tiệt trừ HP.

Không phải bệnh nhân nào nhiễm vi khuẩn HP cũng cần điều trị. Hiện nay, theo hướng dẫn điều trị của Bộ Y tế, có nhiều phác đồ điều trị vi khuẩn HP, chỉ định điều trị và lựa chọn phác đồ phải dưới sự giám sát của bác sĩ.


Theo : Ths.BS Nguyễn Thành Trung - Khoa Nội BV Gia An 115