Đặt Stent kim loại đường mật ở bệnh nhân ung thư di căn

 

Gần 25 năm làm việc trong ngành y, đã thực hiện can thiệp xâm lấn tối thiểu các bệnh lý đường mật-tụy thành công cho hơn 10.000 trường hợp nhưng có thể nói đây là một trong những ca bệnh nhiều thử thách nhất vì “bốn bề nguy cơ” - chia sẻ từ ThS.BS. Nguyễn Thế Toàn, Trưởng khoa Ngoại, Bệnh viện Gia An 115 (thuộc Tập đoàn Hoa Lâm - Khu Y tế kỹ thuật cao Hoa Lâm Sangri-la, Q. Bình Tân, TP.HCM).

Nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP) đặt stent đường mật-tụy cứu người bệnh

Nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP) đặt stent đường mật-tụy cứu người bệnh

Lựa chọn khó khăn trong tình thế cấp bách

Người bệnh N.V.K (sinh năm 1955, ngụ tại Mỹ Tho, Tiền Giang) được chuyển cấp cứu đến Bệnh viện Gia An 115 từ một bệnh viện lớn của TP.HCM ngày 22/02/2023 trong tình trạng sốt, đau bụng, nôn ói. Quá trình bệnh lý cho thấy, người bệnh bị đau âm ỉ và quanh rốn từ trước đó hơn 1 tuần nhưng khoảng 2-3 ngày trước khi cấp cứu bắt đầu đau bụng nhiều hơn và có sốt. Người bệnh hiện bị ung thư đại tràng ngang đã phẫu thuật và hóa trị nhưng tái phát và di căn gan đa ổ đang hóa trị giai đoạn tiến xa, đã từng mổ cắt 2/3 dạ dày nối vị tràng (phẫu thuật làm miệng nối thông giữa dạ dày và quai đầu hỗng tràng). Ngoài ra, người bệnh hiện còn bị bệnh trào ngược dạ dày - thực quản, thiếu máu cơ tim mạn và tăng huyết áp đang điều trị.

Tại Bệnh viện Gia An 115, kết quả cận lâm sàng cho thấy người bệnh có hai khối u gan lớn bên phải kích thước 7cm và 11cm chèn ép xâm lấn tĩnh mạch gan giữa và gan phải, tĩnh mạch chủ dưới, kèm theo đó hạch vùng rốn gan 9x13mm gây tình trạng tắc mật, nhiễm trùng đường mật. Bệnh nhân được điều trị kháng sinh để giảm tình trạng nhiễm trùng đường mật, và có chỉ định can thiệp giải áp đường mật để tránh rủi ro cho tính mạng người bệnh. Tuy nhiên, sử dụng phương pháp can thiệp nào để giải áp đường mật lại là lựa chọn vô cùng khó khăn với các dụng cụ tiêu chuẩn.

Các khối u gan lớn (di căn) chèn ép gây tắc mật

Các khối u gan lớn (di căn) chèn ép gây tắc mật

Ở các trường hợp thông thường, nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP) đặt stent đường mật-tụy cho người bệnh là lựa chọn lý tưởng nhất và thường được chỉ định đầu tiên để dẫn lưu mật, hiện đã thay thế phẫu thuật ở hầu hết các bệnh nhân có bệnh lý ống mật chủ và một số bệnh lý tuyến tụy. Tuy nhiên, để thực hiện kỹ thuật này, ống soi phải được đưa vào miệng, đi qua thực quản, dạ dày, nhú tá tràng để đưa ống thông vào nhú tá tràng và ống dẫn mật. Trong khi người bệnh N.V.K đã từng mổ cắt 2/3 dạ dày nối vị tràng, việc đưa dụng cụ vào đường mật qua thực quản - dạ dày sẽ rất rất khó khăn.

Lựa chọn thứ hai là phương pháp dẫn lưu và đặt stent đường mật xuyên gan qua da (PTBD). Nhưng trên bệnh nhân ung thư di căn gan và có hai khối u rất lớn chèn ép đường vào đường mật, phương pháp này có rủi ro rất lớn, có thể gây xuất huyết và tử vong nhiều khả năng phải chọn đường đi xuyên gan qua u di căn.

Hàng loạt nguy cơ và 3 giờ “cân não”

Để có thể đưa ra lựa chọn tốt nhất cho người bệnh, chuyên gia mật tụy, ThS.BS. Nguyễn Thế Toàn - Trưởng khoa Ngoại, Bệnh viện Gia An 115 - đã quyết định chỉ định nội soi dạ dày nhằm thăm dò và hi vọng có thể tìm cách tiếp cận đường mật bằng kỹ thuật ERCP. Rất may mắn, BS. Toàn đã tìm thấy một đường đi rất nhỏ để có thể thực hiện. Tuy nhiên, bác sĩ cũng đã xác định trước, việc thực hiện ERCP vô cùng khó khăn, nếu thất bại thì phải bắt buộc phải làm PTBD đặt stent kim loại ống mật chủ cho người bệnh.

Người bệnh được tiến hành gây mê nội khí quản trước khi thực hiện ERCP. Với tình trạng của người bệnh, các bác sĩ gây mê - hồi sức đã tính đến hàng loạt nguy cơ xảy ra trong và sau phẫu thuật như: nhiễm trùng huyết, sốc nhiễm trùng; nhồi máu cơ tim trong và sau mổ; suy hô hấp, viêm phổi, thở máy kéo dài, nằm hồi sức và phụ thuộc máy thở; suy gan cấp sau phẫu thuật; nhiễm trùng vẫn diễn tiến sau phẫu thuật…

ThS.BS. Nguyễn Thế Toàn, Trưởng khoa Ngoại, BV Gia An 115 thực hiện can thiệp đường mật cho người bệnh đa bệnh lý nền rất nghiêm trọng

Cuộc phẫu thuật ERCP được tiến hành với sự cẩn trọng và phối hợp cao độ của cả ekip, đứng đầu là ThS.BS. Nguyễn Thế Toàn. Khi đặt máy soi ống thẳng tìm đường đến khung tá tràng từ quai đến, các bác sĩ thấy nhú Vater còn chảy ít dịch mật nhưng lại không thông được vào nhú. Các bác sĩ phải dùng máy soi ống mềm kênh bên, soi lại vào quai đến tới nhú Vater. Tuy nhiên, việc dùng cao cắt cung thông nhú gặp rất nhiều khó khăn, phải mất hơn 1 giờ mới vào được đường mật. Cuối cùng, sau 3 giờ “cân não” với sự tập trung cao độ, các bác sĩ đã đặt stent kim loại đường mật thành công với kỹ thuật ERCP, tránh được tình huống phải tiến hành PTBD với nhiều rủi ro hơn cho tính mạng người bệnh.

Sau khi được thực hiện ERCP thành công, người bệnh tiếp tục được theo dõi sát sau phẫu thuật để có thể phát hiện sớm nhất và can thiệp kịp thời các nguy cơ hậu phẫu. Người bệnh đã được tiếp tục điều trị và xuất viện trong tình trạng các chỉ số xét nghiệm gần như ổn định.

Bệnh viện Gia An 115 là bệnh viện đa khoa tập trung vào các chuyên khoa sâu: Tim mạch, Hô hấp, Thần kinh, Ung bướu, Nội tiết, Tiêu hóa, Thận - Tiết niệu, Lọc máu - Thay huyết tương, Chấn thương chỉnh hình, Vật lý trị liệu - Phục hồi chức năng.

Bệnh viện tọa lạc tại khu vực cửa ngõ miền Tây, là nơi ứng dụng các phương pháp chẩn đoán và điều trị hiện đại, mang đến cho cộng đồng một dịch vụ y tế chuẩn mực cao.

Bệnh viện thực hiện nhiều kỹ thuật cao như can thiệp tim mạch và bệnh lý mạch máu não, điều trị ung thư với kỹ thuật tiên tiến, phẫu thuật nội soi, can thiệp xâm lấn tối thiểu bệnh lý Gan - Mật - Tụy, chấn thương chỉnh hình, siêu lọc máu… đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ để mang đến sự hài lòng cao nhất cho bệnh nhân và người thân.

Bệnh viện đã thông tuyến Bảo hiểm y tế, tất cả thẻ BHYT không phân biệt nơi khám chữa bệnh ban đầu đều được hưởng đúng tuyến trong mọi trường hợp khám bệnh ngoại trú và điều trị nội trú.

Địa chỉ: Số 05, Đường 17A, Khu phố 11, P. Bình Trị Đông B, Q. Bình Tân, TP. HCM

Điện thoại: Cấp cứu: (028) 62 655 115 – Tổng đài Trung tâm điều trị Covid-19: 0886 515 115

Website: www.giaan115.com

 

 


TIN LIÊN QUAN